Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại và phát triển của nó tác động qua lại với nhiều ngành kinh tế - xã hội, nhiều lĩnh vực, trong đó quan hệ giữa du lịch và môi trường gắn kết hữu cơ với nhau: sự tồn tại và phát triển của du lịch gắn liền với môi trường, du lịch phát triển chỉ khi môi trường được bảo vệ. Du lịch muốn phát triển được phải nhờ vào thế mạnh về tài nguyên du lịch cũng như những điều kiện thuận lợi mà môi trường của mỗi địa phương.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại và phát triển của nó tác động qua lại với nhiều ngành kinh tế - xã hội, nhiều lĩnh vực, trong đó quan hệ giữa du lịch và môi trường gắn kết hữu cơ với nhau: sự tồn tại và phát triển của du lịch gắn liền với môi trường, du lịch phát triển chỉ khi môi trường được bảo vệ. Du lịch muốn phát triển được phải nhờ vào thế mạnh về tài nguyên du lịch cũng như những điều kiện thuận lợi mà môi trường của mỗi địa phương.
Là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực đưa nguyên liệu tự nhiên vào các sản phẩm chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp, với 17 năm nghiên cứu và phát triển, các sản phẩm của IMC đã và đang ngày càng được cộng đồng tin yêu và sử dụng.
Chúng tôi là nhà máy chuyên biệt nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mỹ phẩm thiên nhiên độc quyền theo thương hiệu riêng cuả khách hàng.
Hỗ trợ khách hàng nghiên cứu và bào chế mẫu sản phẩm ưng ý đạt hiệu quả và cam kết chất lượng – an toàn đối với người dùng.
Các sản phẩm mỹ phẩm của IMC nghiên cứu đa dạng: dầu gội, sữa tắm , son dưỡng, dung dịch vệ sinh phụ nữ, lăn nách, kem chống nắng, sữa rửa mặt, dưỡng tóc, dưỡng da…
Mọi thông tin tư vấn: Liên hệ 0911818018 (Zalo)
Những điều cần biết về thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Thiên nhiên là một danh từ quen thuộc được chúng ta sử dụng nhiều trong các hoạt động học tập và lao động hằng ngày. Tuy nhiên, mấy người trong chúng ta có thể hiểu “Thiên nhiên là gì?” ,”Thiên nhiên bao gồm những gì?”, “Các dạng tài nguyên thiên nhiên?” và “Vai trò của thiên nhiên?”.
Từ chính điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý thức trong việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên hơn nữa, không chỉ tốt cho cuộc sống của mình mà còn cho các thế hệ con cháu sau này nữa.
Rừng che phủ một phần ba diện tích lục địa, thực hiện nhiều chức năng, cung cấp các dịch vụ thiết yếu và duy trì sự sống trên hành tinh. Hiện nay, sinh kế của 1,6 tỷ người trên trái đất phụ thuộc vào rừng. Rừng đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu, cung cấp ôxy cho khí quyển và giữ lại lượng lớn CO2 thải ra.
trong việc tích trữ nước cho các dòng sông, là nguồn cung cấp nước cho gần 50% các thành phố lớn nhất thế giới. Rừng tạo ra và duy trì độ phì nhiêu cho đất; giúp điều chỉnh tác động tiêu cực của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ và hạn hán…
Tầm quan trọng của rừng còn thể hiện ở chỗ,
có giá trị đa dạng lớn nhất và là nơi sinh sống của hơn một nửa các loài động vật, thực vật và côn trùng trên cạn.
cũng cung cấp nơi ở, việc làm, tạo an ninh sinh kế và các nền văn hóa liên quan đến những cộng đồng định cư trong khu vực rừng. Rừng là lá phổi xanh của trái đất, là yếu tố quyết định sự sống còn của hơn bảy tỷ dân trên hành tinh.
đối với cuộc sống là rất to lớn. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những lợi ích vô giá của rừng về kinh tế, xã hội, sinh thái và sức khỏe, con người vẫn đang tàn phá rất nhiều các khu rừng cần cho cuộc sống và hơi thở của chúng ta.
Tác dụng của rừng đối với đời sống con người rất đa dạng, trước hết rừng cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, phục vụ nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái...
Chính vì vậy cần phải xác định rằng việc
là một cơ hội kinh doanh. Khi chúng ta đầu tư 30 triệu đô la cho việc chống phá rừng và suy thoái rừng thì chúng ta có thể nhận được 2,5 tỷ đô la từ các sản phẩm và dịch vụ mà nó mang lại.
Hơn nữa, việc đầu tư vào lâm nghiệp có thể tạo ra hơn 10 triệu việc làm trên toàn thế giới. Hiện nay, các nhà lãnh đạo đang chỉ ra những tiềm năng của năng lượng tái tạo, nhưng để quá trình chuyển đổi diễn ra thì vấn đề về rừng phải là một ưu tiên trong thể chế và chính sách.
đã rõ. Một trong các tác dụng của hệ sinh thái rừng tập trung vào đối mặt với tương lai là việc cô lập và lưu trữ khí nhà kính carbon dioxide (CO2). Tuy nhiên nạn phá rừng đã gián tiếp khiến cho tình trạng biến đổi khí hậu đang trở nên trầm trọng đe dọa đến cuộc sống trên khắp hành tinh.
Do đó khí hậu đang thay đổi và sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho con người, tác động tới môi trường toàn cầu nhưng rõ rệt nhất là việc sụt giảm nguồn nước ngầm, bão tố, lũ lụt, nắng hạn…thường xuyên xảy ra, đã ảnh hưởng đến đời sống dân cư, hủy hoại sản xuất nông nghiệp và làm suy thoái đa dạng sinh học và tài nguyên nước…
Sẽ không phải là quá muộn để chúng ta bắt đầu xây dựng một cuộc sống xanh trong tương lai, mà ở đó những cánh rừng là trọng tâm của sự phát triển bền vững và các nền kinh tế xanh.
Các hệ sinh thái có thể có đóng góp cao để giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu bằng cách điều chỉnh khả năng thu nhận nước và các bệnh của nó. Như đã biết, xã hội phụ thuộc vào hàng hoá và dịch vụ trong hệ sinh thái. Họ tiếp tục phấn đấu để quản lý bền vững các hệ sinh thái thông qua thực hiện chức năng này, để làm cho xã hội ít bị tổn thương với biến đổi khí hậu.
Sự xuất hiện của“nhãn môi trường” hay“nhãn sinh thái” đã góp phần thúc đẩy các nhà sản xuất nghiên cứu và phát triển sản phẩm thân thiện môi trường.Đến nay, các loại sản phẩm thuộc loại hình này ngày càng được mở rộng trong nhiều lĩnh vực: thiết bị điện, điện tử, gia dụng, thiết bị văn phòng, công nghệ thông tin, phương tiện vận chuyển, máy móc, cơ khí, đồ nội thất và trang trí,vật liệu và máy móc xây dựng, vật liệu bao gói bao bì, sản phẩm may mặc, các sản phẩm làng nghề, nông sản thiết bị an toàn và y tế, năng lượng, dịch vụ sinh thái, du lịch, công nghệ và thiết bị ,các hoạt động nghiên cứu và phát triển về môi trường …
Lịch sử hình thành và hoạt động của chương trình nhãn môi trường trên thế giới có thể được tóm tắt như sau:
- Năm 1978: Nhãn môi trường loại I được khởi xướng áp dụng lần đầu tiên ở Đức;
- Năm 1993: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO) bắt đầu quá trình xây dựng tiêu chuẩn về nhãn môi trường;
- Năm 1994: Tổ chức Nhãn sinh thái toàn cầu ra đời;
- Năm 1998: Ban hành tiêu chuẩn ISO 14020 về các nguyên tắc chung của nhãn môi trường;
- Năm 1999: Ban hành tiêu chuẩn ISO 14024 về nhãn môi trường loại I và ISO 14021 về nhãn môi trường loại II;
- Năm 2000: Ban hành tiêu chuẩn ISO 14025 về nhãn môi trường loại III;
Đến nay Nhãn loại I là loại được áp dụng phổ biến hơn cả, với khoảng trên 40 quốc gia tham gia với các tên gọi khác nhau như:
- Dấu Xanh (Green Seal) ở Mỹ...
- Sự lựa chọn Môi trường (Environmental choice), Biểu trưng sinh thái ở Canada, Australia, New Zealand...
- Dấu Sinh thái (Ecomark) ở Nhật, ấn Độ...
- Nhãn Xanh (Green Mark/Label) ở EU, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan...
Tại 4 nước dẫn đầu là Mỹ, Canada, Nhật và Hàn Quốc, có khoảng 20-30% sản phẩm thân thiện môi trường được cấp giấy chứng nhận nhãn môi trường loại I.
Theo ISO, nhãn môi trường là “sự khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ có thể dưới dạng một bản công bố, tiểu tượng hoặc biểu đồ trên sản phẩm hoặc nhãn bao gói, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo hoặc các hình thức khác”. Còn GEN định nghĩa: “Nhãn môi trường (eco - label) là nhãn chỉ ra tính ưu việt về mặt môi trường của một sản phẩm, dịch vụ so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên các đánh giá vòng đời sản phẩm”.
Theo WTO và WB cho rằng “Nhãn môi trường (eco –label )là một công cụ chính sách do các tổ chức phát hành ra để truyền thông và quảng bá tính ưu việt tương đối về tác động tới môi trường của một sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại”.
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư 19/2009/TT- BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ : nhãn môi trường (hay còn gọi là nhãn xanh, nhãn sinh thái) là các nhãn mác của sản phẩm, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện với môi trường hơn so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Nhãn nhãn môi trường gồm 3 loại:
a) Nhãn kiểu I là nhãn được chứng nhận, cấp cho sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất;
b) Nhãn kiểu II là nhãn tự công bố, do các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp nhập khẩu và doanh nghiệp phân phối đưa ra dựa trên kết quả tự đánh giá hoặc đánh giá của bên thứ ba;
c) Nhãn kiểu III là nhãn tự nguyện của doanh nghiệp sản xuất và cung ứng cho người tiêu dùng theo chương trình tự nguyện của ngành kinh tế và các tổ chức kinh tế đề xuất.
Về hình thức, nhãn môi trường có thể thể hiện là một bản công bố, hay dưới dạng một biểu tượng, biểu đồ gắn trên sản phẩm hoặc bao gói, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo hoặc các hình thức khác.
Đối với doanh nghiệp/công ty tham gia chương trình Nhãn môi trường, việc tự công bố hoặc được cấp giấy chứng nhận nhãn môi trường có thể đem lại một số lợi ích như :
- Sản phẩm/dịch vụ của họ sẽ được công bố trong Danh bạ các sản phẩm được dán nhãn môi trường và các phương tiện thông tin đại chúng.
- Có bằng chứng trực tiếp trên sản phẩm hoặc bao bì sản phẩm, đem lại lòng tin cho người tiêu dùng, cộng đồng, nhà nhập khẩu...
- Được các cơ quan có thẩm quyền miễn hoặc giảm hoạt động thanh tra, kiểm tra về môi trường.
- Là giấy thông hành vượt qua các rào cản xanh để vào một số thị trường đặc biệt khi có yêu cầu.
- Nhãn môi trường có thể được sử dụng trong tài liệu đấu thầu, quảng cáo, mở rộng thị trường...
- Tạo sự gắn bó, niềm tự hào và lòng tin cho cán bộ, nhân viên.
Hoạt động công bố và dán nhãn môi trường phải tuân thủ 9 nguyên tắc được nêu trong tiêu chuẩn ISO 14020:1998, cụ thể như sau:
1- Nhãn môi trường phải phản ánh chính xác, có thể đánh giá- xác minh được, không gây nhầm lẫn hoặc khó hiểu;
2- Nhãn môi trường không được tạo ra rào cản trong hoạt động thương mại quốc tế, có thể so sánh(đảm bảo được tính nổi trội về môi trường so với sản phẩm có cùng chức năng);
3- Các công bố và nhãn môi trường phải dựa trên phương pháp khoa học một cách đầy đủ và hệ thống để minh chứng cho thông tin công bố đồng thời đưa ra kết quả chính xác và có khả năng tái lập;
4- Các thông tin liên quan được sử dụng làm tư liệu cho các công bố và nhãn môi trường phải sẵn sàng để cung cấp cho các bên hữu quan khi có nhu cầu;
5- Việc xây dựng công bố và nhãn môi trường phải dựa trên việc xem xét các khía cạnh môi trường liên quan đến vòng đời sản phẩm;
6- Công bố và nhãn môi trường không được ngăn cấm các sáng kiến nhằm duy trì và cải tiến hoạt động môi trường;
7- Các thủ tục hành chính hoặc yêu cầu thông tin liên quan đến công bố và nhãn môi trường chỉ giới hạn ở những điều cần thiết để thiết lập sự phù hợp với tiêu chí môi trường sản phẩm và yêu cầu sử dụng nhãn;
8- Quá trình xây dựng công bố và nhãn môi trường cần có sự tham gia, góp ý và nhất trí của các bên hữu quan;
9- Thông tin về khía cạnh môi trường của sản phẩm, dịch vụ liên quan tới công bố và nhãn môi trường phải sẵn có tại bên xây dựng để cung cấp cho khách hàng và khách hàng tiềm năng.
(Nguyên tắc cơ bản, tiêu chí sản phẩm và yêu cầu thông tin của 3 loại nhãn được thể hiện cụ thể trong PHỤ LỤC kèm theo).
Yêu cầu cụ thể về thủ tục của các chương trình Nhãn môi trường loại I, II, và III là khác nhau và được đề cập cụ thể trong các tiêu chuẩn tương ứng.
Yêu cầu về thủ tục của chương trình Nhãn môi trường loại I theo Điều 6 và 7 của tiêu chuẩn ISO 14024:1999 được mô tả như sau:
Điều 6.2: Lấy ý kiến của các bên hữu quan
- Phải có cơ chế lấy ý kiến chính thức của tất cả các bên liên quan.
- Cơ chế phải tạo đủ thời gian để các bên hữu quan góp ý;
- Có thể lấy ý kiến thông qua các nhóm đại diện như hội đồng tư vấn, ban cố vấn hoặc đại biểu quần chúng;
- Các bên hữu quan có thể cho ý kiến trong quá trình lựa chọn nhóm sản phẩm, quá trình xây dựng tiêu chí và tính năng sản phẩm;
- ý kiến của các bên hữu quan phải được xem xét;
Điều 6.3.Lựa chọn chủng loại sản phẩm
- Lựa chọn ban đầu về chủng loại sản phẩm có thể;
- Lấy ý kiến của các bên hữu quan;
- Khảo sát thị trường (bản chấtt, số lượng, nhu cầu...);
- Nghiên cứu về các nhàn cung cấp hiện có (quy mô, loại hình, sở hữu...).
- Nghiên cứu tác động môi trường của sản phẩm;
- Nghiên cứu khả năng và nhu cầu cải tiến môi trường;
- Xác định phạm vi chủng loại sản phẩm;
- Nghiên cứu tính phù hợp của sản phẩm so với mục đích sử dụng;
Điều 6.3.2:Kiến nghị chủng loại sản phẩm
- Lập báo cáo khả thi (nội dung nghiên cứu, kết quả...);
- Kiến nghị các chủng loại sản phẩm cho chương trình.
- Nghiên cứu các yêu cầu hiện hành của pháp luật quốc gia và thỏa ước quốc tế.
Điều 6.4. Xây dựng, xem xét và sửa đổi tiêu chí môi trường của sản phẩm.
Điều 6.4.1:Lựa chọn tiêu chí môi trường của sản phẩm
- Nghiên cứu báo cáo khả thi các chủng loại sản phẩm;
- Nghiên cứu vòng đời sản phẩm;
- Lựa chọn tiêu chí trên cơ sở tác động môi trường hoặc khía cạnh môi trường/chất thải;
Điều 6.4.2: Xây dựng tiêu chí môi trường của sản phẩm dựa trên:
- Các vấn đề môi trường liên quan (toàn cầu, khu vực, quốc gia...) cũng như tác động/ khía cạnh môi trường/chất thải;
- Điều kiện công nghệ hiện hành;
Điều 6.5: Xác định tính năng của sản phẩm
- Xác định tính năng của sản phẩm;
- Lựa chọn yếu tố tính năng vận hành chính;
- Kiểm tra xác nhận khả năng áp dụng các yếu tố tính năng vận hành chính đã lựa chọn đối với các sản phẩm cùng loại;
- Xác định mức cần thiết của tính năng.
Điều 6.6: Lập và xuất bản Báo cáo
Yêu cầu về nội dung và thông tin trong báo cáo được xuất bản phải chứng tỏ rằng:
- Việc lựa chọn chủng loại, thiết lập tiêu chí và đặc tính của sản phẩm là phù hợp với phạm vi, nguyên tắc, quy phạm và yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14024:1999;
- Tiêu chí là khách quan và có thể đánh giá được;
- Phương pháp đánh giá tiêu chí và đặc tính sản phẩm đã được thiết lập.
- Các bên hữu quan đã được tạo điều kiện để tham gia vào quá trình và những ý kiến của họ đã được xem xét.
Điều 7: Đánh giá chứng nhận và cấp giấy phép sử dụng nhãn
- Quy định về điều kiện chứng nhận (thiết lập trên cơ sở ISO 14020:1998, ISO 14024:1999, ISO/IEC Guide 65, ISO/IEC Guide 22).
- Tiêu chí môi trường và tính năng của mỗi dòng sản phẩm.
Quy định về điều kiện chứng nhận bao gồm:
- Báo cáo bên đăng ký cần xuất bản;
- Điền kiện đình chỉ, hủy bỏ giấy chứng nhận;
- Thủ tục thực hiện hành động khắc phục khi có sự không phù hợp;
- Thủ tục giải quyết phản ánh, khiếu nại;
- Thủ tục đánh giá và thử nghiệm;
Thủ tục của chương trình Nhãn môi trường loại II (tự công bố) theo tiêu chuẩn ISO 14021:1999 liên quan chủ yếu đến trách nhiệm tự đánh giá và cung cấp thông tin cần thiết của bên tự công bố sao cho đảm bảo 9 nguyên tắc đã nêu trên theo yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14020:1998;
Yêu cầu về thủ tục của chương trình Nhãn môi trường loại III được nêu trong phần 8 của tiêu chuẩn ISO 14025:2000 bao gồm 3 bước chủ yếu dưới đây:
- Chuẩn bị công bố môi trường loại III/Báo cáo kỹ thuật (dựa trên cơ sở đánh giá tác động môi trường trong suốt vòng đời sản phẩm);
- Kiểm tra xác nhận thích hợp và đúng đắn của phương pháp đã sử dụng trong quá trình xây dựng Báo cáo kỹ thuật;
- Đánh giá chứng nhận rằng phương pháp đã lựa chọn là đúng, thích hợp và kết quả đưa ra là chính xác.
Khó khăn và thuận lợi khi áp dụng ở Việt Nam
Tại Việt Nam,khái niệm “nhãn môi trường” hay “nhãn sinh thái”vẫn còn khá xa lạ với người sản xuất và người tiêu dùng.Khi triển khai chương trình Nhãn môi trường,chúng ta gặp phải một số khó khăn như:
- Nhận thức của xã hội nói chung về vấn đề môi trường còn ở mức thấp nên áp lực cho việc dán nhãn từ phíaChính phủ cũng như người tiêu dùng chưa cao .
- Am hiểu về đặc tính môi trường của sản phẩm còn rất hạn chế trong khá nhiều người làm công tác quản lý môi trường ở cấp cơ sở cũng như người tiêu dùng, sử dụng sản phẩm nên việc công bố rộng rãi các Báo cáo kỹ thuật môi trường theo nhãn loại III cũng ít có ý nghĩa (vì không hiểu hoặc ít thông tin thì nhà sản xuất có công bố rộng rãi các đặc tính môi trường cụ thể thì cũng khó thuyết phục rằng như thế là tốt, là hơn hẳn).
- Tính tự giác và tự cam kết của người áp dụng sẽ là yêu cầu tiên quyết cho sự thành công của việc triển khai nhãn tự công bố loại II;Nếu thiếu nhận thức về tác động môi trường gây nên bởi các hoạt động của mình thì tính tự giác và tự cam kết sẽ không cao, dẫn đến việc dán nhãn tự công bố kém độ tin cậy.Việc này làm cho người tiêu dùng có thể bị nhiễu, bị định hướng sai bởi những người làm chưa tốt nhưng lại rùm beng trong công bố hoặc quảng cáo.
Ngày 02/12/2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư 41/2013/TT-BTNMT Quy định trình tự, thủ tục, chứng nhận nhãn sinh thái cho sản phẩm thân thiện với môi trường.Theo Thông tư một sản phẩm/hàng hóa muốn được cấp Nhãn xanh Việt Nam phải đạt tất cả các tiêu chí bắt buộc về tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường và lao động (xem bảng 02). Tiêu chí này áp dụng chung cho tất cả các loại sản phẩm (Vì vậy còn được gọi là “Tiêu chí chung”, ký hiệu là nhóm tiêu chí A). Nếu doanh nghiệp không đạt các tiêu chí chung thì chưa được xem xét cấp Nhãn xanh Việt Nam.
Thông tư này cũng khẳng định Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm công bố Tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam tương ứng cho từng nhóm sản phẩm.Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam cho một loạt các sản phẩm (xem phần PHỤ LỤC kèm theo).
Ngoài các tiêu chí đã nêu, tất cả các sản phẩm/hàng hóa muốn nhận được chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam cần phải có hướng dẫn sử dụng chi tiết và dễ hiểu,được in ở vị trí dễ nhìn thấy nhất trên bao bì sản phẩm về phương pháp sử dụng sản phẩm an toàn nhất cho môi trường (liều lượng khuyến cáo, điều kiện sử dụng, cách thải bỏ an toàn sản phẩm/bao bì sau khi sử dụng).
Gắn Nhãn xanh Việt Nam là hoạt động tự nguyện nên để được cấp Nhãn xanh Việt Nam, tổ chức, cá nhân (gọi là doanh nghiệp) phải lập hồ sơ đăng ký theo quy định tại Điều7,Thông tư số 41/2013/TT-BTNMT và gửi cho Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT. Doanh nghiệp có quyền gắn Nhãn xanh Việt Nam cho sản phẩm đã được chứng nhận trong thời hạn 3 năm, kể từ thời điểm có Quyết định chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam. Hết thời hạn này, để được tiếp tục gắn Nhãn xanh Việt Nam, doanh nghiệp phải lập lại hồ sơ và thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký và chứng nhận lại.
Kiến nghị về xây dựng chương trình và mô hình cấp nhãn môi trường ở Việt Nam
i. Cần xây dựng chương trình quốc gia về Nhãn xanh Việt Nam để tập trung nguồn lực và xác định các ưu tiên thực hiện. Việc hình thành chương trình quốc gia sẽ góp phần thể chế hóa và chiến lược hóa các hành động của quốc gia về Nhãn xanh Việt Nam , qua đó, đẩy mạnh tầm quan trọng và tính thực thi .Chương trình nên được lồng ghép và triển khai một cách đồng thời với các Chương trình hiện có liên quan cũng như nhấn mạnh vào những ưu tiên phù hợp với điều kiện của đất nước;
ii. Các chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm Xanh cần được phối hợp với việc thúc đẩy lối sống và mô hình tiêu dùng bền vững trong tất cả các giai đoạn của quá trình triển khai chương trình . Cần tạo lập và thúc đẩy phát triển thị trường, các kênh mua sắm, phân phối phù hợp đối với các hàng hóa và dịch vụ bền vững;
iii. Cần lựa chọn những trọng tâm, ưu tiên phù hợp với yêu cầu cũng như điều kiện phát triển, nguồn lực tài chính để triển khai Chương trình . Các trọng tâm cần tập trung vào các vấn đề: sản xuất công nghiệp bền vững, xây dựng và giao thông, xử lý chất thải, du lịch bền vững, năng lượng và nước, sản phẩm bền vững, sản xuất sạch hơn, nông nghiệp bền vững;
iv. Chương trình quốc gia về Nhãn xanh Việt Nam là vấn đề mang tính liên Bộ/ngành, do vậy, cần có sự phối hợp chính sách để đảm bảo sự hợp tác trong thực thi. Bên cạnh đó, cần huy động sự tham gia của tất cả các lực lượng trong xã hội trong thực hành, chia sẻ và nhân rộng các sáng kiến thành công. Chính vì vậy, bên cạnh Chính phủ, khu vực kinh doanh, các tổ chức dân sự xã hội cũng cần được khuyến khích tham gia trong tất cả các quá trình;
v. Khu vực doanh nghiệp cần được nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua sản xuất bền vững, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào chương trình cũng là một nội dung quan trọng cần được quan tâm;
vi. Bên cạnh sử dụng các công cụ kiểm soát thông qua tiêu chuẩn kỹ thuật, cần đa dạng hóa các nhóm công cụ liên quan đến khuyến khích hành động hướng tới bền vững của nhà sản xuất, người tiêu dùng và các tổ chức xã hội dân sự;
vii. Thành công của chương trình phụ thuộc mạnh mẽ vào nỗ lực của doanh nghiệp và nguồn tài chính cho triển khai các hoạt động. Chính vì vậy, việc phân bổ nguồn ngân sách, kêu gọi tài trợ từ các tổ chức bên ngoài như xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược, sử dụng các công cụ kinh tế (thông qua thuế, phí, phạt…) trong triển khai đóng vai trò quan trọng.
Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay,có thể lựa chọn thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái cho một số nhóm sản phẩm thân thiện môi trường như:
- Các nhóm sản phẩm được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, dây chuyền công nghệ thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên, phát tán ít chất thải (chè, dừa, gỗ cao su, vật liệu xây dựng…)
- Các loại sản phẩm mà việc tiêu thụ chúng không ảnh hưởng xấu đến môi trường mà còn có các tác động tích cực trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường đất, nước, không khí như các sản phẩm tái chế, tái sử dụng, các sản phẩm tiêu thụ ít năng lượng hoặc các sản phẩm thay thế (sản phẩm dệt, giấy lụa, thuỷ tinh, nhựa tái chế, giấy bao gói, bóng đèn tiết kiệm điện…)
- Các loại hình dịch vụ được coi là thân thiện với môi trường như dịch vụ thu gom rác thải, thu gom phế liệu, dịch vụ xử lý chất thải bệnh viện, dịch vụ công viên cây xanh, dịch vụ du lịch sinh thái....
Trong giai đoạn đầu thử nghiệm chương trình ở Việt Nam, chỉ nên giới hạn ở việc đánh giá các thuộc tính của sản phẩm cuối cùng, sau đó sẽ dần điều chỉnh và mở rộng đến việc đánh giá các quá trình khác. Trước mắt, các nhóm tiêu chí cơ bản sau có thể được sử dụng:
- Tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu
- Có khả năng tái chế, tái sử dụng
- Giảm ô nhiễm và có tác dụng cải thiện môi trường đất, nước, không khí.
Các tiêu chí cần được xem xét thường xuyên trên cơ sở những thay đổi của công nghệ, thị trường, yêu cầu ưu tiên về môi trường, sự xuất hiện của các sản phẩm mới cũng như thay đổi nhận thức về môi trường và sản phẩm của các nhà sản xuất và người tiêu dùng…Trong những khoảng thời gian nhất định (3 đến 5 năm theo kinh nghiệm của nhiều nước), Chương trình nhãn sinh thái sẽ có những quyết định phù hợp về việc có nên huỷ bỏ các tiêu chí đã được xây dựng hay nên sửa đổi, bổ sung, nâng cao… hoặc tiếp tục thực hiện tiêu chí.
Theo kinh nghiệm của nhiều chương trình nhãn sinh thái đã nghiên cứu, mô hình hoạt động độc lập của các tổ chức đánh giá và cấp nhãn sinh thái thường tỏ ra có hiệu quả hơn, phù hợp với xu hướng phi tập trung hoá quản lý hiện nay.Trước mắt có thể thí điểm ở Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh, chọn uỷ quyền cho một tổ chức chuyên môn có tư cách pháp nhân, đủ năng lực để thực hiện việc đánh giá và cấp nhãn. Sau đó sẽ dần mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc, có thể có nhiều tổ chức đánh giá và cấp nhãn phân bố ở các vùng, miền để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đăng ký cấp nhãn./.
Phòng Thông tin, Thư viện và Xúc tiến thương mại - VIOIT